Tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới
gởi qua đường bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa
lạ. Gần nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và
mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại, một số
không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc cưới của con
cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia đình. Vì vậy có người
chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có thể trở thành “quan viên” hai họ.
Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và hiền lành này, muốn tìm ai, cứ việc mở cuốn
điện thoại niên giám hoặc vào guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ.
Cũng có thể là do một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham
dự được nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý
nghĩa” chăng?
Địa điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm
ngoại ô thành phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng,
nhưng lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con
gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ chồng cô
con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ hay cô dâu chú rể
có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không thể tham dự được, huống
hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi phân vân, bà xã cầm tấm thiệp
màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo “forget it !”
Sáng thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý,
nghe điện thoại reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên
kia đầu dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng
cả tên lẫn họ của tôi.
- Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị
không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.
- Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang
Na-uy, anh làm thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne
Bich, chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.
Tôi giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông
dịch, giúp khá nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái
tên làm sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê
Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên. Sau khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được
đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao
nhiêu điều muốn nói.
o O o
Thời gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may
mắn được chọn làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Nauy. Được thầy cô dạy kèm
riêng, và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất đắc
dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng tiếng Na-uy,
một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam lúc ấy. Và cũng nhờ
cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi được chọn làm thông dịch tạm
thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian
này Na-uy nhận một số lượng khá đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển
và một số trường hợp nhân đạo khác.
Nói là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ,
khai lý lịch ở Sở Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha
sĩ, hay vào bệnh viện khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy
rõ Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử quá tốt
với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn nhã mà lương bổng
cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới, nên sau này, khi đã được
chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin
giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm thêm ngoài giờ hành chánh.
Tuy nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn
nghề nghiệp” không ít. Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của
họ bị bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên
biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông dịch lại bằng
tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để diễn đạt những điều
“tế nhị”.
Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng cho người tỵ nạn, nằm
trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là một giáo sư tâm lý học, điều
hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và rất tận tâm với nghề nghiệp. Những
người tỵ nạn gặp điều không may, bị hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người
thân trên đường vượt biển, đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như
can thiệp Cơ quan Di Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm
nhiều phương tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông
dịch để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo dài
cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm sao tôi có thể
truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông dặn dò trước khi làm việc:
- Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một
ca điều trị. Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa
bằng ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa
loại bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không đủ
khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và bác sĩ
Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải yêu cầu ông nói
thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi hiểu rõ, và nhất là
không hiểu lầm, những gì ông nói.
o O o
Một hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà
Kari Mette ra phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận
nhân đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan đến
Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người khác. Bà
Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có nhiều khả năng và uy
tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ Nạn trong khu vực thị xã.
Chúng tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi
đón hôm nay là một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm
chăn mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng túi
hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ. Trông
cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài lời chào mừng của bà Kari
Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà Kari Mette, cô gật đầu, lí nhí hai tiếng
cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái theo một lối đi riêng, không phải
qua kiểm soát. Một chiếc xe tản thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ
dìu cô gái lên nằm trên một băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu.
Theo yêu cầu của cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh
viện. Bà Kari Mette lái xe chạy theo sau.
Ở phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị
bác sĩ, tôi mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc
giam giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một lực
lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang mang thai hơn
năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp cô sớm hồi phục sức
khỏe và bảo vệ thai nhi.
Khi trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng
đôi mắt thật buồn và ái ngại, Một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời.
Tôi từ tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần thiết
phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau đó, tôi mới hiểu
ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác sĩ.
Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những
người làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận bảo
mật những điều tai nghe mắt thấy). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay
áo quần bệnh viện. Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có
khuôn mặt khá xinh, dù đôi mắt thật buồn. Theo cô y tá đưa cô lên một phòng
riêng ở tầng ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo
yêu cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích ăn
uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi chúc cô ăn
ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi, nói cám ơn rồi vội
vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn khoăn lo lắng, khi phải ở lại
một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp
bệnh nhân hay y tá cần điều gì, cứ gọi cho tôi.
Kể từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người
thân quen duy nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo
bà xã tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập
truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.
Sau một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết
tâm trí chưa ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa
đêm. Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi và
khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù gì nó cũng
là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề trong lòng, cô cứ
nói ra mỗi lần ông đến thăm.
Cô không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những
người tị nạn khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại
kiều đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi được
biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt.
Trước 75, mẹ cô là cô giáo và cha là một sĩ quan cấp tá, bị
mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng I di tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu.
Anh là con trai lớn của một người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền
nhỏ chở theo 47 người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái
Lan chặn lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy
hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh niên
khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục soát trên tàu
và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi rời khỏi thuyền, chúng
phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi hai tên trong bọn kéo Kiều
đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định giật lại Kiều, bị chúng bắn bị
thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la khóc thất thanh của Kiều cùng những
cô gái khác.
Vừa mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô
gái bị chúng bắt theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn
sóng dường như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát,
không bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng kiến
hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hải đau đớn uất
hận tột cùng của những cô gái nạn nhân.
- Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát
ngạc nhiên hỏi.
- Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên
thuyền trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.
Tối hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh
hãi, biết mình không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi
thân xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay, cắn
chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.
Tay thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những
cô gái khác. Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô
ăn, nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một ngày
trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc, giật mình thức
dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.
Sau khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng
cõng cô trên lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô
gái khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu khóc
hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng họ bị hiếp
cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội nghiệp. Nhưng dù
sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thãi trong nỗi dày vò, mặc cảm và
vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân xác lẫn linh hồn họ. Là cánh
hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một ngày đêm dông bão, cô ví mình chẳng
khác nào rác rưởi tắp vào một nơi hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may
mắn?
Anh cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt
lên trần nhà để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho anh ta, một
người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu có, hà cớ gì phải
khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi. Chúng tôi dừng lại khi thấy
cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ giấy soft cho cô lau nước mắt và mời
cô một ly nước saft.
- Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu
thoát? Anh cảnh sát hỏi.
- Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức
ăn, nước uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ những
lần trước.
Đó là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm
hôm, có khi cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác
“chiến lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ
lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới lưng, cả
ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen đúa với đầy những
hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng Thái hay là bản tính ít
nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô
ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu.
Rượu giúp hắn trở thành con hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn
lột hết áo quần cô, làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm
hồn cô đã trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu
đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.
Bọn họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung
quanh vắng lặng, ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi
khá lâu mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường
ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe như có
tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô gái đồng hành bất
hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước biển làm rát khóe mắt,
nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho
sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển
có thể rửa bớt phần nào nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn
dò phải cố giữ gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng
bất động nghe lòng dạ bồi hồi.
Gió từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm
lại một chút yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và
hai đứa em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc
trên một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề.
Hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một xứ
thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường cùng. Bao
nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền
vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng chỉ đủ gom góp mua một cây
vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại
khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội
gởi xác thân ở một nơi vô danh nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc
một thời, bỗng dưng trở nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình
sĩ quan công chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải
bỏ học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến tương
lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất, là cô phải ra
đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm trường, có biết bao điều bất
trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có người yêu của cô, cũng là con của một
người bạn cùng khóa với chồng, cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình
gặp nhau, tổ chức một lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.
Cô bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình
dung tới tuổi ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy
năm cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã gặp
mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên đỉnh Lâm Viên
với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã quỳ xuống vũ đình trường
trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh, đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông.
Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn
nhiên ngày ấy, giờ tản mác trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả
đã mất rồi, cả một bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không
bao giờ còn tìm lại được!
Đầu óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ
hồ Xuân Hương thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu
hò hẹn người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị
giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển. Ngồi bệt
xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô gọi đến khan cả cổ,
để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh mông xa thẳm, không tìm thấy
chân trời. Cô đã bật khóc.
o O o
Tôi định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho
anh cảnh sát, đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh
sát đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự
nhiên. Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho mẹ và
các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ cho cô được ưu
tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được đoàn tụ với gia đình.
Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:
- Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ
đau buồn vì những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn
đang giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù em
rất nhớ mẹ và các em.
Ngần ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một
số tiền để gởi về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu,
hứa sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục, gặp
nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều bổ túc hồ
sơ.
Hai hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số
tiền 10.000 kroner (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên
vào biên nhận. Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo
là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô nhoẻn
miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô chẳng biết
nói chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc động khi tôi đưa cho
cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô được cấp, chứ không phải mượn.
Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và
hằng tháng sau này, cũng như trợ cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên
tâm, đừng bận tâm gì về chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn
khi nghe tôi bảo trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con
cũng khốn cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may
mắn được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn định.
Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe những ngày cô
theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự các buổi lễ ra trường.
Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số
tiền còn nguyên trong bì thơ về cho mẹ. Trong mắt cô sáng lên niềm vui.
Một lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo
là ở Na-uy vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để
xin cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng,
nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô còn nhờ
tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo là lời một bản
nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.
o O o
Khi được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay
sau đó tôi thấy cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi
xin phép cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh
nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người đàn bà
thân quen bên cạnh cũng an tâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói trước là vợ tôi
hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất nhiên tôi không hề tiết lộ
điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được
định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối cùng cô gật đầu. Cuối tuần, vợ chồng tôi đến
thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một ít thức ăn Việt nam và mấy bộ áo quần con nít.
Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt
chồng, vì tôi bận tham dự hành quân, không về kịp. Tôi ra ngoài, để cho hai người
đàn bà dễ nói chuyện sinh đẻ. Cô sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết
rơi kín cả khung trời. Vợ chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở
bên cạnh cô, còn tôi ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng
hơn 30 phút, tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ
gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy cô
khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.
Sau một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn,
được phòng xã hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà
thích hợp cho cô. Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện cho
các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.
Mấy ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô
mà để làm thông dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến
cho con cô nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói
vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp điều gì nữa
không, cô bập bẹ trả lời: “tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi
người đều hiểu được.
Ngày đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô.
Chúng tôi ghé siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa
không mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi. Họ
cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho biết là cô
đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ không tiết lộ địa
chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên, tôi chợt nhớ đến lời một
bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc
lại nhiều lần: “ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”. Trên đường về, bà xã tôi thắc
mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc
dù tôi đã vừa mới hiểu ra.
Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô,
tôi định hỏi thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ
Nạn. Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi, một
người biết quá nhiều về cô.
o O o
Bích Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước
cổng nhà, vợ chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của
người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của hai mươi lăm năm trước.
Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45, 46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích Kiều vẫn
còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm chầm chúng tôi,
rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.
- Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao
đi có một mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?
Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười
sau một thoáng thẹn thùng:
- Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm
mai đây.
Chúng tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm
hồng vàng vừa mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang
nước ra mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm, phấn son xong
mới lên tiếng:
- Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm
thiệp cưới. Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích
tiên đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ. Cô cười bẽn lẽn:
- Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em
còn đau xót lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người
Việt nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và mang
ơn anh chị.
Tôi cười:
- Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc
Kiều còn nhớ cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ
tôi viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo rất
thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu được, nên
không có ý tìm Kiều.
o O o
Đúng là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi
thành phố Ålesund. Ở đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và
dân chúng rất tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ
và hai cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong
vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và trong giấy
khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của Kiều. Anh đã bị
chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi vất xác xuống biển. Kiều
giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa
cháu ngoại duy nhất của mình là con của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim,
khi sang Na-uy được mười sáu năm.
Được chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông
con cùng mọi việc trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều
xong đại học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi
hai cậu em được nhận vào trường NTH, một đại học kỹ thuật bách khoa nổi tiếng tại
thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về đây sau sáu năm ở
Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt nghiệp ở trường này mùa hè
năm ngoái.
- Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con
Kiều cùng hai cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là
chúng tôi không có dịp được gặp bà.
Đang vui, bỗng Kiều xúc động:
- Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất
vả với con cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu
Bách.
- Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm
đau lòng thêm những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ.
Tôi tin là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi
nói để an ủi.
Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi,
hỏi Kiều:
- Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy
tên Bích Kiều đẹp lắm. Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc
Bích Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.
- Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba
chìm bảy nổi quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng
là chữ lót của em.
Tôi cười phụ họa:
- Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt
tôi là Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin lỗi,
đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi tên Bích
nghe.
- Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều
mà. Ngoài gia đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng
đã qua rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em biết,
ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm, phải vậy không?
Cả ba chúng tôi đều cười.
Kiều nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ.
Không biết vì không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời
gian, cô bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho
chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai trong
ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai cô cậu đều đẹp,
mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông minh.
- Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.
Cô cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp,
con gái út của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy,
và bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp, đạo đức,
có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi, tuổi tác ngang với
cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày đám cưới. Nhưng điều quan
trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và chính cô nữa, được tự tin, ấm áp
hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn
tôi là người đồng hương duy nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có
Bách hiện diện trên thế gian này.
- Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một
kỷ niệm thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị,
em sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em cũng đã
nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết chuyện Trác, và tội
nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em thường bắt gặp cháu đứng thật
lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn thờ.
- Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với
cháu?
Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:
- Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội,
nên biết ba của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ
lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy thật lo sợ
và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được từ lâu rồi, vậy mà
bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc ngủ của em. Thú thực, ban
đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng gần ngày đám cưới cháu, em càng
thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường
tận hoàn cảnh của mẹ con em, bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được
những gì cứ phải chôn giấu, đè nặng mãi trong lòng.
Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:
- Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng
hay vẫn ở chung với cô?
- Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm
thì chia tay, còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.
o O o
Cuối cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London.
Phải gọi sang xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc
ba má cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh
phúc. Lễ thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn
Royal Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu
chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các bãi cỏ
xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ. Họ nhà trai
dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở mấy hôm nay, làm “điểm
xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn người. Thêm một cậu người
Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ chồng tôi đến với hai cô con gái
và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ vật, theo yêu cầu của Kiều.
Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra đời vào một đêm
đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ có vợ chồng tôi, hai người
đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc đầu đời, bây giờ là một thanh niên
tuấn tú, có học, chân thật hiền lành. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói
tiếng Việt rất giỏi. Bất giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát
ngoại kiều trước kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét
gào phẫn nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng,
trên người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men rượu.
Bỗng tôi giật mình với cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng hướng tâm
trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết những hình ảnh đen
tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và hạnh phúc.
Lễ thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là
nhà giáo, hiểu biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục
do ông bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép.
Tôi mừng cho Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là
con rể của gia đình này. Có lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ,
sau khi lạy ông bà trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến
dâng rượu và xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công
ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ, mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước
thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của mình. Một lạy
xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha bất hạnh, sớm lìa đời
khi chưa thấy mặt con.
Khi vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm
động, Kiều âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào, sau một
lúc mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng. Thầm
mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của hạnh phúc.
Không khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước
lên, đúng vào lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.
Phạm Tín An Ninh